Từ nay đến năm 2030, Việt Nam cần 130 tỷ USD cho phát triển điện
logo
5 stars - based on 1 reviews

Trong buổi chất vấn Bộ trưởng Bộ Công Thương sáng 7/11, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đã làm rõ thêm một số nội dung mà đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm về vấn đề năng lượng. Trong đó, Phó Thủ tướng cho biết: Sơ bộ đánh giá thì từ nay đến năm 2030, chúng ta cần vốn đầu tư khoảng 130 tỷ USD (bình quân khoảng 12 tỷ USD/1 năm), trong đó khoảng 9 tỷ USD cho đầu tư nguồn điện và 3 tỷ USD đầu tư cho lưới điện.

Cần khoảng 12 tỷ USD/1 năm cho đầu tư nguồn điện, lưới điện

Theo Phó Thủ tướng, điện năng có vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu và là một nhân tố quyết định thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm vừa qua, trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng ngành điện, Bộ Công Thương và các tập đoàn kinh tế nhà nước mà nòng cốt là Tập đoàn Điện lực Việt Nam và các nhà đầu tư đã nỗ lực, cố gắng để đầu tư phát triển hệ thống điện, đáp ứng yêu cầu cung ứng điện cho phát triển kinh tế, xã hội.

Tuy nhiên, việc phát triển hệ thống điện đang gặp rất nhiều khó khăn như rất nhiều vị đại biểu đã nêu. Do đó, nếu chúng ta không có giải pháp hữu hiệu, quyết liệt để tháo gỡ sẽ có nguy cơ thiếu điện trong những năm tới. Chúng ta thấy cơ cấu nguồn điện đã có sự thay đổi rất nhanh. Quy hoạch Điện 7 với tổng công suất nguồn của các giai đoạn không có thay đổi đáng kể, nhưng có thay đổi cơ cấu; từ đó dẫn đến chúng ta phải điều chỉnh quy hoạch. Nếu không điều chỉnh quy hoạch thì sẽ rất khó đáp ứng yêu cầu đủ điện cho sản xuất.

Cơ cấu nguồn điện có sự thay đổi lớn so với Quy hoạch Điện 7 (điều chỉnh) do chúng ta dừng phát triển điện hạt nhân; các dự án nhiệt điện than gặp nhiều khó khăn trước sự quan ngại về ô nhiễm môi trường; nguồn thủy điện có nhiều ưu điển thì đà khai thác cơ bản hết công suất (khoảng 20.000 MW). Nhiều dự án lớn chậm tiến độ (cụ thể trong số 60 dự án có công suất từ 200 MW trở lên thì có đến 35 dự án chậm tiến độ từ 1 - 5 năm, thậm chí có dự án còn chậm kéo dài hơn nữa, với công suất khoảng 39.000 MW) từ đó dẫn đến nguy cơ thiếu điện từ năm 2019.

Do đó, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định điều chỉnh Quy hoạch điện 7 nhằm bổ sung thêm các nguồn điện. Trong đó, đặc biệt là nguồn điện tái tạo và các nguồn điện khác để bù đắp sự thiếu hụt này. Do nguồn điện mặt trời, điện gió có rất nhiều ưu việt như: không ô nhiễm môi trường, không tốn nhiên liệu. Bên cạnh đó, nguồn điện này dễ huy động nguồn vốn không chỉ trong nước, phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà còn huy động được nguồn vốn nước ngoài.

Do đó, sau chưa đầy 2 năm ngành điện đã huy động được khoảng 4.500 MW điện mặt trời và gần 400 MW điện gió; từ đó góp phần bù đắp lại những phần thiếu hụt điện và đáp ứng yêu cầu cung ứng đủ điện cho phát triển sản xuất và sinh hoạt của người dân.

Cái khó thứ hai là nhu cầu đầu tư phát triển nguồn điện, lưới điện rất lớn. Sơ bộ đánh giá thì từ nay đến năm 2030, chúng ta cần vốn đầu tư khoảng 130 tỷ USD (bình quân khoảng 12 tỷ USD/1 năm), trong đó khoảng 9 tỷ USD cho đầu tư nguồn điện và 3 tỷ USD đầu tư cho lưới điện.

Như vậy là rất khó khăn để có thể huy động được nguồn vốn đầu tư này và đây cũng là nguyên nhân chính gây ra sự chậm trễ của rất nhiều dự án điện hiện nay.

Bên cạnh đó, việc đầu tư nguồn điện còn mất cân đối giữa các vùng miền trong cả nước. "Chúng ta thấy rất rõ là khu vực phía Nam tiêu dùng điện khoảng 50% của cả nước, nhưng chỉ sản xuất chưa đầy 40%. Còn khu vực phía Bắc và miền Trung tiêu thụ khoảng 50%, nhưng sản xuất đến 60%. Do đó, chúng ta phải tiếp tục xây dựng đường dây tải điện Bắc - Nam mạch số 3 để điều tiết điện cho khu vực phía Nam" - Phó Thủ tướng nêu rõ.

Ngoài ra, nguồn điện tái tạo nhiều địa phương hiện nay còn rất khó khăn do việc đầu tư đường dây tải điện chậm hơn so với việc đầu tư nguồn điện và thiếu đồng bộ. Đây cũng là một hạn chế cần phải tìm rõ nguyên nhân.

Theo Phó Thủ tướng, nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện than và khí càng ngày càng lớn. Hiện nay, chúng ta thiếu cả nhiên liệu than, khí cho phát triển ngành điện, dẫn đến phải nhập than, khí thiên nhiên, khí LNG với quy mô lớn (năm 2025 phải nhập khoảng 31 triệu tấn than, năm 2030 khoảng 50 triệu tấn than; chưa nói đến phải nhập một lượng khí LNG lớn cho nhiều trung tâm điện khí).

 

 

Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng đã làm rõ thêm một số nội dung mà đại biểu Quốc hội và cử tri quan tâm về năng lượng. Ảnh: VGP/Nhật Bắc.

 
Một số giải pháp trọng yếu

Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, để đảm bảo cung ứng đủ điện cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới, đặc biệt là giai đoạn 2021 đến năm 2030, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ tập trung vào một số giải pháp trọng yếu.

Trước hết là phải tập trung lập quy hoạch Điện 8 (giai đoạn đến 2030, tầm nhìn 2050) theo hướng đổi mới công tác lập quy hoạch.

Quy hoạch chủ yếu chỉ tập trung vào việc xác định quy mô công suất nguồn điện cho từng giai đoạn; xác định cơ cấu nguồn điện theo hướng tăng nguồn điện tái tạo, tăng điện khí trong cơ cấu nguồn điện so với Quy hoạch Điện 7. Vấn đề nữa là xác định không gian để phân bổ điện hợp lý; tranh thủ những tiềm năng lợi thế của các địa phương, các khu vực để bố trí dự án.

Chẳng hạn như điện mặt trời thì bố trí khu vực có nhiều nắng (như khu vực miền Trung Nam bộ, các địa phương phía Nam); hoặc những dự án điện khí thì phải bố trí những khu vực mà có khả năng xây dựng được các cảng kho khí đáp ứng yêu cầu vận tải.

Mặt khác, phải bố trí các nguồn điện phù hợp với nhu cầu dùng điện của mỗi địa phương để tránh việc mất cân đối về đáp ứng nhu cầu điện như hiện nay. Quy hoạch phải tập trung quy hoạch đường truyền tải đáp ứng yêu cầu giải toả công suất và truyền tải an toàn hiệu quả.

Phó Thủ tướng cho biết: Quy hoạch điện 8 đến năm 2021 thì mới có thể phê duyệt được cho nên trước mắt là phải tập trung để điều chỉnh Quy hoạch điện 7. Vấn đề này đã có đầy đủ cơ sở pháp lý do Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết, Chính phủ sắp ra một nghị quyết để quy định quy hoạch tích hợp được bổ sung vào quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Hiện nay đang tập trung để ra nghị quyết này.

Trong nghị quyết này, trên cơ sở tính toán tổng thể công suất nguồn và cơ cấu nguồn điện trong từng giai đoạn sẽ điều chỉnh, bổ sung các nguồn điện mới vào quy hoạch; trong đó tiếp tục khuyến khích đầu tư điện mặt trời điện gió và bổ sung thêm các dự án điện khí.

Trên cơ sở quy hoạch, Bộ Công Thương sẽ xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn, từ đó xác định các dự án ưu tiên để huy động vốn đầu tư thực hiện và phải tập trung tháo gỡ khó khăn cho các dự án trọng điểm của ngành điện chậm tiến độ để sớm đưa vào hoạt động như: Nhà máy nhiệt điện Thái Bình 2, Sông Hậu 1, Long Phú 1,...

Riêng về Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, hiện nay đã hoàn thành khoảng trên 80% khối lượng công việc, chỉ cần đầu tư 2.000 tỷ đồng nữa sẽ hoàn thành dự án này. Việc đưa dự án khoảng 1.200 MW vào hoạt động sẽ góp phần rất quan trọng để cung cấp thêm nguồn điện cho phát triển sản xuất.

Đồng thời, phải đẩy nhanh tiến độ các dự án đã xong thủ tục đầu tư để sớm thực hiện đầu tư những dự án như: Nhà máy Nhiệt điện Vân Phong 1, cụm Nghi Sơn, Nhơn Trạch,... đẩy nhanh tiến độ các dự án chuỗi điện khí Cá Voi Xanh và Lô B; sớm xác định quy mô nguồn điện tại các cụm điện khí LNG (Sơn Mỹ, Long Sơn, Cà Ná,...) trong tổng thể Quy hoạch Điện 8 (dự kiến) gắn với phát triển các kho cảng khí.

Theo Phó Thủ tướng, có nhà đầu tư đề nghị đầu tư với tổng công suất cụm điện khí Bạc Liêu 3.200 MW và Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý chủ trương bổ sung quy hoạch và yêu cầu Bộ Công Thương phải tính toán tổng thể đảm bảo cơ cấu nguồn điện hợp lý trong tổng thể các dự án điện khí trong giai đoạn đến năm 2030. Bộ Công Thương đã tích cực thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, đến nay Bộ Công Thương mới trình bổ sung là trên 800 MW trong tổng thể 3.200 MW.

Nếu như vậy thì rất khó khăn cho việc lập kế hoạch đầu tư tổng thể, đặc biệt là cảng và kho khí. Vấn đề này, UBND tỉnh Bạc Liêu cũng có ý kiến đề nghị bổ sung thêm. Do đó, Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Công Thương xem xét kỹ thêm để bổ sung quy hoạch cụm điện khí Bạc Liêu trong tổng thể các cụm khí của cả nước, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để có thể đầu tư đồng bộ.

Quan điểm của Thủ tướng Chính phủ là rất ủng hộ những dự án đầu tư điện khí, đặc biệt là khu vực phía Nam để bù đắp phần thiếu hụt, giảm việc vận tải điện từ phía Bắc.

Mặt khác, theo Phó Thủ tướng, việc thực hiện nhập khẩu điện đảm báo nhu cầu điện gắn với đảm bảo quốc phòng an ninh; tập trung thực hiện các dự án truyền tải điện, trong đó tập trung đẩy nhanh tiến độ đường dây 500 kV (Vũng Áng - Quảng Trạch - Dốc Sỏi - Pleiku) để đảm bảo giải tỏa công suất các trung tâm điện lực và đáp ứng truyền tải điện cho khu vực phía Nam, khu vực nông thôn, vùng núi, hải đảo.

Đặc biệt là hoàn thiện thể chế pháp luật liên quan đến đầu tư phát triển của ngành điện; trong đó có các cơ chế, chính sách đặc thù để hỗ trợ, khuyến khích, tháo gỡ khó khăn cho những dự án lớn.

Về huy động cho đầu tư đường truyền tải điện, theo Phó Thủ tướng, hiện đang vướng Luật Điện lực. Luật Điện lực có quy định là Nhà nước độc quyền về truyền tải điện. Nhưng độc quyền ở đây không có nghĩa độc quyền cả về đầu tư, mà là độc quyền quản lý. Còn vấn đề đầu tư phải huy động các nguồn vốn xã hội. Vấn đề này phải rõ như vậy.

"Nhà nước độc quyền quản lý về đường truyền tải điện thông qua Tập đoàn Điện lực Việt Nam, nhưng cũng đồng thời phải tạo cơ chế, chính sách cho huy động đầu tư các nguồn vốn khác" - Phó Thủ tướng nhấn mạnh./.

Theo Nangluongvietnam.vn